Search
Thursday 21 November 2024
  • :
  • :

Ruth Bell Graham: Đời Sống Tốt Lành

Ruth Bell Graham: Đời Sống Tốt Lành

Loisusong.net – Nhiều người trong chúng ta đã nghe biết về nhà truyền đạo nổi tiếng thế giới – Billy Graham – người được cho là đã mang sứ điệp Cơ đốc đến cho số lượng người nghe đông đảo hơn bất kỳ ai khác và liên tục lọt vào danh sách mười người ảnh hưởng nhất nước Mỹ. Như chúng ta có thể dự đoán, đằng sau những thành công của một người nam của Đức Chúa Trời chắc hẳn có sự hỗ trợ, lời cầu nguyện và công sức của người vợ. Và thậm chí trong lần phỏng vấn gần đây nhất, ở tuổi 94, Billy Graham vẫn liên tục nhắc đến vợ. Nhà truyền đạo nói ông không sợ chết, nhưng không hề nghĩ là mình sẽ sống lâu hơn vợ mình, người đã về với Chúa vào năm 2007. Billy nói ông đã học nhiều bài học khó khăn khi không còn vợ ở bên. “Mặc dù tôi sẽ chẳng bao giờ quen được với cuộc sống mà không có Ruth, nhưng có lẽ bà ấy sẽ là người đầu tiên mắng tôi nếu tôi không tìm kiếm kế hoạch của Chúa cho thời điểm này, ở tại đây.” Nhân dịp ngày 8/3, Loisusong.net gửi tới độc giả, đặc biệt là các chị em yêu quý, bài lược trích về người nữ tài đức này.

Tất cả những ai biết Ruth (Ru-tơ) Bell Graham đều biết rằng bà là người yêu Chúa và yêu người. Qua những gì bà đã viết, đã nói, và những hành động nhân từ – cho người lân cận, cho bạn bè và bất kỳ ai cần đi nhờ xe – bà đã bày tỏ ân điển và sự thương xót của Cứu Chúa mà bà gặp gỡ hồi còn là một cô bé ở Trung quốc.

Sinh ra ở Trung Quốc

Bố mẹ Ruth là những Cơ đốc nhân hạnh phúc, và Ruth có lần nói đó là một phần trong khoản thừa kế mà cô đã nhận được. Bố mẹ của cô, bác sỹ Nelson và Virginia Bell, là những giáo sỹ làm công tác y tế tại bệnh viện Yêu Thương ở Tsingkiangpu, Trung Quốc, từ năm 1916 đến khi Thế Chiến thứ hai bắt đầu.

Đó là những năm tháng khó khăn. Trung quốc hồi ấy đầy bất ổn và người nước ngoài còn bị gọi là “quỷ ngoại”.  Bất chấp hoàn cảnh, tiếng cười và những bài hát vẫn luôn vang lên trong gia đình nhà Bell và bệnh viện nơi họ làm việc. Ruth là con thứ hai, sinh vào ngày 10 tháng 6, 1920. Cô và các chị em đã học được những điều cơ bản về đức tin Cơ đốc từ tấm gương cầu nguyện và học Kinh thánh hằng ngày của bố mẹ, cùng với lời cầu nguyện chung của cả gia đình trước bữa ăn sáng. Ruth không thể nhớ nổi có buổi sáng nào tỉnh dậy mà lại không thấy bố của cô đang đọc Kinh thánh hoặc quỳ gối cầu nguyện.

Các con nhà Bell rất hay được nghe những câu chuyện về những người tử vì đạo, cũng như sự hy sinh của các giáo sỹ và các tín đồ Trung quốc. Những lời chứng ấy đã ảnh hưởng sâu đậm trên Ruth, và cô chị Rô-sa hay được nghe em gái của mình cầu xin Chúa cho mình được tử vì đạo trước cuối năm. Cô chị Rô-sa thực tế hơn, sau khi nghe lời cầu nguyện “đáng sợ” của cô em liền tiếp lời: “Chúa ơi, xin Ngài đừng để ý đến nó!”

Dẫu có xu hướng đa cảm, cô bé Ruth lại được biết đến nhiều nhất như người có tấm lòng dịu dàng. Cô rất yêu thú vật, thậm chí có lần còn mang cả gà và vịt  đi ngủ cùng. Con vật nào chết cũng được cô làm tang lễ. Sự dịu dàng thời thơ ấu đối với những người yếu đuối phản ánh phần nào cách đối xử của cô về sau với những người hư mất và yếu đuối xung quanh.

Xa nhà

Khi lên 13 tuổi, bố mẹ gửi cô đến trường quốc tế Pyeng Yang (hiện là Pyongyang, Bắc Triều Tiên). Hàng tuần liền, đêm nào cô cũng thổn thức vì nhớ nhà. Trong một trận ốm ngắn, cô đọc đã toàn bộ 150 thi thiên. Đó là khởi đầu của cái mà sau này cô gọi là “trại huấn luyện”. Chúa đã sử dụng thời gian này để dạy cô về việc tìm sự nương náu nơi sự hiện diện của Ngài, khi mà tưởng chừng phải cả đời xa cách những người thân yêu.

Tình hình chiến sự ngày càng phức tạp, bác sỹ Bell thu xếp cho các con về Mỹ, và vào 22/10/1937 Ruth nói lời tạm biệt gia đình và rời Trung quốc. Dù gia đình cô tiếp tục ở lại Trung quốc đến năm 1941, phải hàng chục năm sau Ruth mới có dịp trở lại nơi mình đã sinh ra. 

Ấn tượng đầu tiên

Ruth đến Wheaton (Hoa Kỳ) an toàn, bắt đầu đến học trường Kinh thánh và nghệ thuật. Dù có vài khó khăn ban đầu, Ruth nhanh chóng thích nghi, có nhiều bạn bè và được rất nhiều chàng trai biết đến. Cô chưa gắn bó với ai, cho đến năm thứ hai, khi một chàng sinh viên mới tên là Billy Graham bước ngang qua trên cầu thang của giảng đường.

 “Chắc là anh ta đang vội” – cô nghĩ. Cô đã nghe về chàng tân sinh viên này cùng sự giảng đạo nóng cháy của chàng. Sáng chủ nhật tuần ấy, cô nghe anh cầu nguyện vào giờ cầu nguyện. Đây là người biết Đấng mà anh ta đang nói với” – cô nghĩ. 

Billy cũng đã nghe về Ruth. Một người bạn đã tả rằng cô là người con gái dễ thương và thuộc linh nhất ký túc xá. Cuối cùng, khi Billy nhìn thấy cô thì đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên.
Nhưng đối với nàng Ruth giàu tình cảm, chắc chắn đây không phải lần đầu cô nghĩ đến đấng lang quân mà Chúa sẽ cho mình. Nhiều thanh niên ngày nay vẫn rất thích bài thơ, cũng là lời cầu nguyện của cô về “người ấy”.2

Kính lạy Chúa, con cúi đầu khẩn nguyện
(Dù biết rằng bao thiếu nữ dám đâu)
Con không xin trang tuấn kiệt mày râu
Xin chàng được giống Ngài càng rõ nét

Con không xin một chàng trai cao đẹp
Cũng không xin người tài trí hào hoa
Quyết không xin người giàu có cao xa
Chỉ xin cho đầu chàng luôn ngước thẳng

Xin Chúa cho mắt chàng luôn trong sáng
Đôi vai chàng thẳng đứng với phong ba
Gương mặt chàng tỏa nét kính sợ Cha
Nhắm mục đích của Ngài mà bước tới

Chàng đã đến như là chàng phải đến
Ánh mắt nhìn, im lặng buổi sơ giao
Nhưng lòng con đã biết tự thủa nào
Chính chàng ấy là người con khẩn nguyện …

Chàng đã đến, như là chàng phải đến… 

Sau khi đã theo dõi nàng từ xa trong vài tuần, Billy lấy can đảm và mời cô đi dự buổi hòa nhạc tác phẩm Messiah của Handel. Ruth nhận lời, rồi về phòng của mình và cầu nguyện: “Chúa ơi, nếu Ngài cho con phục vụ Ngài cùng với người đàn ông này, con sẽ coi đó là vinh hạnh lớn nhất của đời con.”

Billy và Ruth tiếp tục hẹn hò và bắt đầu nói chuyện về hôn nhân, nhưng có một vấn đề khó xử. Đã nhiều năm, Ruth nghĩ rằng Chúa gọi cô làm giáo sỹ ở Ti-bét. Dù không chống việc trở thành giáo sỹ, Billy lại cảm nhận sự kêu gọi mạnh mẽ để trở thành người truyền đạo. Ruth cố gắng thuyết phục Billy nhưng chỉ làm tình hình thêm căng thẳng. Cuối cùng, họ đã dành một khoảng thời gian để cầu nguyện riêng về vấn đề này.

Như Ruth kể trong cuốn sách “It’s my turn” của mình, rõ ràng cô, không phải Chúa, là người đang cố gắng gọi Bill đến Ti-bét. Cuối cùng Bill đã quay sang và hỏi:

–       Em có tin là Chúa đã mang chúng ta đến với nhau không?

–       Có!

–       Thế thì – Bill nói tiếp – Chúa sẽ dẫn anh còn em thì đi theo nhé!

Mặc dù Ruth rất tin vào câu nói của người xưa: “Khi hai người mà chuyện gì cũng đồng ý, thì một trong hai người trở nên vô dụng”,  cuộc nói chuyện quan trọng này đã giải quyết vấn đề. Mùa hè sau đó, khi đang giảng đạo tại một Hội thánh ở Florida, Bill đã nhận được một lá thư rất dày từ Ruth. “Em sẽ lấy anh” là câu đầu tiên trong thư. Bill đã giảng ngất ngây vào buổi tối hôm đó, dù sau này chẳng biết mình đã giảng cái gì. Vị mục sư hôm đó nói ông cũng không chắc có người nghe nào hiểu Bill đang giảng cái gì không. Hai người làm lễ cưới vào ngày 13/8/1943.

Ruth và Billy Graham

Về sau, Ruth đã không hối tiếc về việc rời Ti-bét để cưới Billy Graham. Có tiếp tục cô cũng không thể ở Ti-bét hơn 4 năm nữa, vì tình hình chính trị thay đổi cũng sẽ buộc cô phải ra đi. Về sau Ruth đã viết về thời gian ấy: “Tôi có thể đã bỏ lỡ cơ hội hầu việc Chúa cả đời cùng với người đàn ông tuyệt vời nhất mà tôi biết, rồi có 5 đứa con, và 15 đứa cháu thú vị, đáng yêu, dễ thương nhất. Tất cả điều đó, cộng với một cuộc sống khác thường!” Chúa đã sử dụng ước ao đi Ti-bét để thử xem cô có sẵn lòng vâng lời Ngài.

Thích nghi

Năm 1943, Billy nhận lời mời để làm mục sư của một Hội thánh Báp-tít. Anh không hỏi vợ sắp cưới xem cô nghĩ gì về ý tưởng này, nhưng Ruth cũng không để điều đó ngăn cản cô nói với anh rằng việc chăn bầy một Hội thánh sẽ làm chệch hướng kêu gọi thành nhà truyền đạo. Đó là bài học mà Billy đã nhớ. Nhiều năm sau, vào thời gian chịu áp lực ra tranh cử, Billy đã nghe theo lời khuyên của cô: “Khi Chúa gọi anh thành người truyền đạo, anh đừng xuống cấp để trở thành tổng thống.

Billy không quen với những ý kiến của những người phụ nữ ý chí mạnh, và thường thì rất hiểu biết, của nhà Bell. “Bill được lớn lên trong một gia đình mà phụ nữ không bao giờ được đặt câu hỏi với đàn ông” – Ruth nhớ lại – “trong khi ở gia đình tôi, thì đó lại là tất cả những gì chúng tôi làm.”

Anne, người con gái thứ hai của họ, đã nói: “Bố tôi không cần phải xin lời khuyên của mẹ thì mới nhận được. Tôi nhớ có lần mẹ bảo bố đã rất bực mẹ, vì bố không muốn nghe ý kiến của mẹ. Bố không thích những người đàn bà có chính kiến, thế mà trong nhà thì lại toàn những người phụ nữ như thế. Để một người đàn ông vốn quen sống độc lập biết lưu tâm và tư vấn người cộng tác của mình cần phải mất thời gian. Tôi nghĩ trong một số câu chuyện ấy bố tôi đang học để trở thành một người chồng… Ngày nay bố không chỉ hỏi xem mẹ nghĩ gì, mà còn tôn trọng và lắng nghe nữa.

 Ngày càng nhiều đòi hỏi hơn

Mục vụ của Billy ngày càng mở rộng, và vào tháng giêng năm 1945, anh phải thôi chức vụ mục sư để trở thành người truyền đạo trọn thời gian đầu tiên cho mục vụ Thanh niên cho Đấng Christ. Đó mới là khởi đầu của những quãng thời gian xa cách khó khăn cho cả hai vợ chồng. Trong những năm đầu ấy, khi con cái chưa ra đời, Ruth thường đi cùng Billy khi ngân sách cho phép. Cô thường tư vấn và cầu nguyện với những người đáp ứng lời kêu gọi tin Chúa. Cô đặc biệt nhạy cảm với những người đang vật lộn trong cuộc sống và viết thư trả lời cho họ trong hàng năm trời. Nhưng rồi các con bắt đầu xuất hiện, các chiến dịch truyền giảng càng ngày càng dài ngày hơn, càng lớn hơn. Ruth đã nghe theo lời khuyên của một người phụ nữ, cũng là vợ của người truyền đạo, để gánh lấy trách nhiệm chăm sóc nhà cửa và con cái, cho Billy được tự do đi lại và giảng đạo ở bất cứ nơi nào Chúa gọi.

Billy Graham và tổng thống Mỹ Richard Nixon trong một chiến dịch truyền giảng vào năm 1970

Không phàn nàn vì phải ở phía sau, Ruth cố gắng để làm cho ngôi nhà của họ trở thành một tổ ấm cho Billy mỗi khi ông không phải đi xa. Lo toan cả việc mua đất, thiết kế rồi xây sửa nhà cửa, cộng với việc nuôi dạy năm đứa con mà không phải lúc nào cũng là thiên sứ như nhiều người tưởng, trong khi bố chúng lại hay xa nhà hàng tháng trời. Khi có người hỏi cô đã làm được điều đó bằng cách nào, cô trả lời: “Bằng cách quỳ gối thôi!” Chắc những ai từng làm mẹ ở khắp nơi đều hiểu câu chuyện của cô về một buổi sáng nọ.

Hôm ấy, sau một đêm bận rộn, tôi đã ngủ quên. Không kịp chải đầu hay trang điểm, tôi thay vội cái áo, kéo thằng Franklin ra khỏi giường mà chẳng thèm thay đồ cho nó, đặt nó ngồi trên ghế, rồi vội vàng lo đồ ăn sáng để các con không bị đến trường muộn.

Sáng hôm đó, hễ con bé Gigi mở miệng ra là thằng Bunny ngắt lời. Cuối cùng, trong sự tuyệt vọng, Gigi đập mạnh cái dĩa xuống.

“Mẹ! – Nó hét lên – nghe Bunny, ngửi mùi của Franklin, nhìn vào mẹ là con hết đói rồi!”

Các con nhà Graham lớn lên  mà hầu như không biết về sự cô đơn và khó khăn của mẹ để chăm lo nhà cửa khi chồng xa nhà.

Trong cuốn sách của mình, người con trai hiện đang lãnh đạo mục vụ kế tục cha, Franklin Graham, đã viết: “Hình như mẹ chẳng bao giờ kêu ca về chuyện bố phải đi xa. Chúng tôi biết là bố đi giảng đạo, nhưng chúng tôi tưởng bố của đứa trẻ nào cũng phải đi xa. Mẹ rất tích cực và hay trích câu của một ông cụ nói thế này: “chuyện đã qua hãy coi là chuyện nhỏ, để chu toàn cho điều sắp xảy ra.”

Ruth trang điểm cho cuộc sống bằng khả năng quan sát và óc hài hước. Có lần cô nói: “Tôi chưa bao giờ tính đến chuyện ly dị – Giết người thì có rồi nhưng ly dị thì chưa bao giờ.”

Khi Billy về nhà, Ruth cố gắng giữ mọi thứ cho bình yên và thoải mái. Cô linh hoạt trong những điều mình làm và dành thời gian giúp chồng tìm những minh họa cho bài giảng, viết sách hoặc viết bài cho chương trình phát thanh “Giờ quyết định.”

Trong một bài viết gần đây, Billy còn kể lại: “Cách đây vài năm, Ruth đọc cuốn sách mà tôi đang viết. Khi đọc xong phần mô tả sự xuống dốc trong tiêu chuẩn đạo đức của đất nước ta, để thờ các thần tượng giả dối như công nghệ và tình dục, vợ tôi đã làm tôi giật mình khi kêu lên: “Nếu Chúa không trừng phạt nước Mỹ, Ngài sẽ phải xin lỗi Sô-đôm và Gô-mô-rơ.”

Sự hỗ trợ sắt đá của Ruth đối với mục vụ của Billy và khả năng quản lý gia đình đã được cả đội làm việc với Billy tôn trọng. Người trợ tá lâu năm của Billy nói: “Có lẽ sẽ không có Billy Graham như chúng ta biết ngày nay nếu không có Ruth.”

Nhưng không ai tôn trọng Ruth hơn là Billy.

Mỗi khi về nhà là tôi thấy cả sự ngất ngây lẫn nỗi thống khổ của việc làm cha mẹ. Nếu Ruth không xác quyết rằng Chúa đã gọi mình để hoàn thành khía cạnh này trong sự cộng tác, và không liên tục đến với Lời Chúa để được hướng dẫn, đến với ân điển Chúa để thêm sức mạnh, tôi không nghĩ có cách nào để cô ấy sống sót được.”

Người truyền đạo tại nhà

Ruth cũng tìm kiếm những cơ hội để chính mình phục vụ tại nơi mình ở.

Dorothy Thielman, vợ của mục sư Hội thánh nơi mà nhà Graham tham dự, có nói: “Hễ thấy ai có nhu cầu hoặc bị tổn thương đặc biệt là cô ấy đến với người ấy ngay.”

Tong Sing, người gốc Cam-phu-chia, chủ nhà hàng mà Ruth ưa thích, cũng kể về lòng tốt của Ruth. Khi họ chân ướt chân ráo đến Mỹ cách đây 28 năm, họ đã được Hội thánh nơi nhà Grahams tham dự bảo trợ. Tong đã khóc khi phát hiện ra số tiền mà Ruth đã góp phần để mua nhà cho họ. “Bà ấy giống như mẹ của tôi vậy”, Vợ của Tong Sing nói thêm.

Mẹ có tấm lòng của người truyền đạo” – cô con gái Anne đã nói vậy trong một lần phỏng vấn – “Mặc dù ơn của mẹ thường bị che lấp bởi ơn của bố, nhưng ơn của mẹ thể hiện rất hiệu quả khi làm chứng cá nhân. Sâu sa trong mẹ là ước muốn cho từng người biết Chúa một cách cá nhân, trong một cách gần gũi. Bố giảng cho đám đông, hướng tới hàng ngàn, còn mẹ thì trò chuyện với từng người, yêu từng người một.”

Đến lượt mình (It’s my turn – tựa đề một cuốn hồi ký của Ruth)

Khi các con lớn và có gia đình riêng, Ruth được rảnh ranh hơn để theo đuổi niềm đam mê viết lách của mình. Mặc dù là vợ của một trong những người truyền đạo nổi tiếng nhất thế giới, động cơ của Ruth không phải là để quảng bá bản thân. Từ hồi thơ ấu, cô bé Ruth đã hay viết để giải tỏa những cảm xúc không thể bộc lộ cho người khác. Cuốn sách đầu tiên của Ruth được xuất bản là tập thơ “Sitting by My Laughing Fire” (tạm dịch: Ngồi bên đống lửa cười). Thơ của Ruth tả thực, phản ánh những cô đơn và vật lộn của cuộc sống, nhưng tràn trề lòng tin tưởng vào Chúa.

Khi viết về gia đình và cuộc sống riêng, Ruth không ngần ngại bày tỏ những điểm yếu của mình. Nhiều người đọc những bài viết của cô trên tạp chí Decision đã viết cảm ơn vì những lời khuyên rất thực tế. “Lần nào đọc những gì bà ấy viết, tôi đều cảm thấy bà đang nói trực tiếp với mình. Cảm ơn Chúa vì bà sẵn lòng để được sử dụng cho công việc Chúa” – Một nữ độc giả đã viết.

Những năm tốt nhất

Năm 1974, trong khi đang chăm sóc cháu ngoại, Ruth bị ngã và bị thương nặng, khiến bà khó cử động trong suốt những năm còn lại. Mặc dù thân thể chậm chạp và thường đau đớn, tâm linh bà vẫn rất sống động và đầy khích lệ.

Những năm cuối, mắt của Ruth nhìn không còn được rõ, nhưng bà tiếp tục gửi thư cho bạn bè, tiếp tục viết với sự trợ giúp của con gái và một vài người bạn. Và giống như bà vẫn khích lệ người khác làm khi đối diện với những hạn chế không tránh khỏi của tuổi già, bà cầu nguyện – cho Billy và mục vụ của ông, cho gia đình và cho bạn bè, và cho tất cả những người mà bà đã từng biết trong nhiều năm tháng.

“Càng già lại càng yêu hơn!” (Billy Graham)

Càng vào những năm cuối, tình yêu của Billy và Ruth cho nhau càng rõ rệt hơn –  trong cả cách họ trêu nhau lẫn trong ánh mắt họ nhìn nhau. Vào lễ kỷ niệm 60 năm ngày cưới, Ruth nhớ lại những năm đầu tiên: “Mấy năm đầu thì có một số điều phải thích nghi, nhưng bây giờ thì thích nghi tốt lắm rồi.”

Billy gọi mối quan hệ của họ là một tiểu thuyết.

Mối quan hệ của chúng tôi ngày nay tốt hơn nhiều” – ông viết – “Chúng tôi nhìn vào mắt nhau và đụng chạm vào chau. Càng già lại càng yêu hơn. Bí quyết là Chúa Jêsus Christ – và có Ngài là trung tâm của đời sống chúng ta.”

Đ. Hưng lược dịch và tổng hợp

(1)     Ruth Bell Graham: A Life Well Lived. by Kristen Driscoll (www.billygraham.org)

(2)     Bản dịch thơ của Thiên Hà 




Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.